Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

Thuốc chữa đau tim

Heart Attack Thuốc



Thuốc men có thể là một công cụ hiệu quả trong việc điều trị một cơn đau tim (nhồi máu cơ tim) và ngăn chặn các cuộc tấn công trong tương lai. Các thuốc phổ biến nhất được sử dụng để điều trị nhồi máu cơ tim bao gồm các loại thuốc được mô tả trong các phần sau.


Một cơn đau tim là một trường hợp khẩn cấp đe dọa tính mạng và đòi hỏi sự quan tâm y tế ngay.


Phần 2 của 6: làm tan huyết khối

Thuốc tan huyết khối


Ngoài ra "busters cục", thuốc tan benh tim dat may tro tim  huyết khối được sử dụng ngay lập tức sau một cơn đau tim ở những nơi thông tim là không có sẵn. Thuốc được quản lý bởi IV và hoạt động bằng cách nhanh chóng hòa tan bất kỳ cục u lớn trong động mạch và phục hồi lưu lượng máu đến tim. Phương pháp điều trị bổ sung hoặc phẫu thuật có thể được yêu cầu nếu lưu lượng máu không trở lại bình thường. Một số ví dụ về các loại thuốc tan huyết khối là:
Alteplase (Activase)
Anistreplase (Eminase)
strptokinase (Streptase)
Tissue plasminogen activator (tPA)
Urokinase (Abbokinase)

Phần 3 của 6: thuốc chống đông máu
Thuốc chống đông máu


Thuốc chống đông máu làm giảm bệnh tim đặt máy trợ tim  nguy cơ đông máu ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim. Chúng thường được gọi là thuốc chống đông máu. Ví dụ về các thuốc chống đông máu bao gồm:
Heparin
Lepirudin (Refludan)
Warfarin (Coumadin)

Phần 4 của 6: beta-blockers
Chẹn beta


Chẹn beta là một nhóm thuốc được bệnh tim bẩm sinh dùng để điều trị cao huyết áp, bệnh và các điều kiện khác được điều trị. Các loại thuốc mà làm cho nó dễ dàng hơn để làm cơ bản cho trái tim của bạn, công việc của mình bằng cách ngăn chặn các hành động của adrenaline và làm chậm tốc độ và lực lượng của nhịp tim. Chẹn beta được dùng để làm giảm và cải thiện lưu lượng máu sau cơn đau tim ngực. Nhiều nghiên cứu trong 40 năm qua đã chỉ ra rằng beta-blockers thường được sử dụng như điều trị tiêu chuẩn sau một cơn đau tim, trừ khi có một lý do gì không sử dụng chúng. Trong khi những vẫn là một loại thuốc quan trọng trong điều trị nhồi máu cơ tim, một số nghiên cứu đã tìm thấy những thói quen trong câu hỏi. Một số ví dụ về các beta-blockers trong đau ngực ở những người là để làm giảm cơn đau tim:
Atenolol (Apo-atenolol)
Carvedilol (Coreg)
ametoprolol (Toprol)

Phần 5 của 6: chất ức chế ACE
Chất ức chế ACE (men chuyển)


Như beta-blockers, thuốc ức chế men chuyển (ACE inhibitor) trong điều trị tăng huyết áp và các điều kiện khác.
Chất ức chế ACE giúp thư giãn  benh tim mach và làm giãn các mạch máu bằng cách ngăn chặn việc sản xuất một loại enzyme, để thu hẹp các mạch nguyên nhân. Chất ức chế ACE có thể cải thiện lưu lượng máu để giảm căng thẳng cho tim và giúp ngăn ngừa thiệt hại thêm cho cơ tim sau một cơn đau tim. Điều này cũng có thể giúp "định hình lại" trái tim mình, tốt hơn để làm việc bất chấp những phân đoạn cơ bị hư hỏng. Một số ví dụ về các chất ức chế ACE bao gồm:
Benazepril (Lotensin)
Captopril (Capoten)
Enalapril (Vasotec)
fosinopril (Monopril)
Lisinopril (Prinivil, Zestril)
Moexipril (Univasc)
Perindopril (Aceon)
Quinapril (Accupril)
Ramipril (Altace)
Trandolapril (Mavik)

Phần 6 của 6: thuốc kháng tiểu cầu
Kháng tiểu cầu


Aspirin là loại phổ biến nhất của loại thuốc chống đông máu. Để ngăn chặn các loại thuốc đông máu trong các động mạch của tiểu cầu dính lại với nhau. Thuốc kháng tiểu cầu thường từ những người đã phải chịu đựng một cơn đau tim, và có nguy cơ đông máu bổ sung, đặc biệt là những người đã trải qua chỉ bởi ống thông hoặc tái thông mạch bệnh tim mạch  máu được sử dụng làm tan huyết khối. Antiplatelets cũng có thể được sử dụng để điều trị những người có nhiều yếu tố nguy cơ đau tim. Ngoài aspirin, là thuốc kháng tiểu cầu:
Clopidogrel (Plavix)
Ticlopidine (Ticlid)
eptafibitide (Integrilin)

Đối với các loại thuốc này, chỉ dùng aspirin thường được sử dụng như là một phòng ngừa ban đầu để làm giảm nguy cơ đau tim trước khi nó đã thực sự xảy ra.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét